Vượt qua Bangladesh, Việt Nam trở thành nhà xuất khẩu may mặc lớn thứ hai thế giới, chỉ xếp sau Trung Quốc.
Cụ thể, theo thống kê mới nhất của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các sản phẩm may mặc “made in Vietnam” chiếm 6,4% thị phần thế giới, chỉ xếp sau Trung Quốc 31,6%, vượt trên Bangladesh (6,3%).
Việt Nam thành nhà sản xuất may mặc lớn thứ hai thế giới
Việt Nam đã vượt qua Bangladesh để trở thành nước xuất khẩu hàng may mặc, đặc biệt là các sản phẩm may sẵn lớn thứ hai trên thế giới (RMG).
Kinh tế Việt Nam bứt phá sau 14 năm gia nhập WTO
Bangladesh hiện đứng ở vị trí thứ ba, trong đó Trung Quốc vẫn là nhà xuất khẩu lớn nhất. Đây là số liệu mới nhất từ đánh giá thống kê thương mại Thế giới năm 2021 do Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) công bố vừa qua.
Theo WTO, xuất khẩu quần áo, hàng may mặc của Việt Nam đã tăng 6,4 phần trăm vào năm 2020 với giá trị thị trường là 29 tỷ USD.
Trong thập kỷ qua, thị phần của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu hàng may mặc toàn cầu đã tăng mạnh, chỉ mười năm trước Bangladesh vẫn còn chiếm ưu thế lớn hơn 85%, vào năm 2020 thị phần của quốc gia này đã giảm từ 6,8% xuống còn 6,3%, xếp sau Việt Nam, trang Fashionunited của Anh khẳng định.
Theo đánh giá thống kê thương mại Thế giới năm 2021 của WTO, hàng may mặc “made in Vietnam” chiếm 6,4%, tăng rất nhanh so với mức 2,9% của năm 2010.
Ngành may mặc Bangladesh bị giáng đòn mạnh trong đại dịch Covid-19
Thực tế, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam và Bangladesh đều giảm trong năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Tuy nhiên, thống kê cho thấy, sản lượng của Bangladesh giảm trong đại dịch Covid-19, với các nhà máy đóng cửa do nhiều thương hiệu thời trang phương Tây hủy đơn đặt hàng hoặc trì hoãn thanh toán.
Việt Nam tăng trưởng thần kỳ, GDP tăng hơn 300% nhờ WTO và FTA
Xuất khẩu của Bangladesh giảm tốc mạnh, chỉ đạt mức khoảng 28 tỷ USD. Thị phần may mặc mà quốc gia này chiếm lĩnh cũng giảm xuống mức 6,3% toàn cầu. Trong khi đó, Bangladesh luôn là nhà xuất khẩu hàng may mặc lớn thứ hai thế giới kể từ năm 2010.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều nhà máy phải ngưng hoặc tạm dừng hoạt động do vấn đề tuân thủ quy định phòng chống dịch.
Trong khi đó, Việt Nam luôn cố gắng đa dạng hóa sản xuất, không chỉ là hàng may mặc thời trang cấp trung bifnhh – thấp, bình dân, thời trang may sẵn mà còn cả quần áo và phụ kiện tầm trung và cao cấp. Còn Bangladesh nổi tiếng với các mặt hàng may mặc giá rẻ, sản phẩm thời trang may sẵn bình dân.
Việt Nam và Liên minh Châu Âu đã ký kết Hiệp định thương mại tự do EVFTA, thúc đẩy đáng kể hoạt động thương mại sang khối thương mại lớn nhất thế giới.
Hiện tại, Trung Quốc vẫn là nhà xuất khẩu RMG lớn nhất thế giới với 31,6 thị phần, mặc dù đã giảm 7% vào năm 2020, tỷ trọng xuất khẩu của nước này ở mức 142 tỷ USD.
Tại sao Việt Nam là điểm đến hấp dẫn cho nguồn cung ứng hàng may mặc?
Như đã phân tích, hiện nay, các công ty toàn cầu đã giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc kể từ khi sự bùng nổ của Covid-19 cũng như hậu quả của chiến tranh thương mại Mỹ – Trung Quốc.
Với EVFTA, Việt Nam xóa bỏ thành công nghi ngờ về năng lực cung cấp
Thực tế, đã tồn tại rất nhiều đánh giá cho rằng, Việt Nam chính là “bên thắng cuộc” trong chiến tranh thương mại Mỹ – Trung. Quốc gia Đông Nam Á này được hưởng lợi đáng kể, nhất là giai đoạn đầu thương chiến, khi chính quyền Donald Trump kiềm chế gắt gao sự trỗi dậy của nền kinh tế Trung Quốc thông qua các lệnh trừng phạt và áp thuế gay gắt.
Các phân tích cũng cho thấy, xuất khẩu và sản xuất chế tạo, hàng may mặc đóng góp lớn cho tăng trưởng GDP Việt Nam.
Bên cạnh đó, quốc gia này cũng có cơ sở hạ tầng hướng tới chuỗi cung ứng tương đối tốt hơn so với các nước như Ấn Độ và Bangladesh. Đồng tiền của Việt Nam cũng được đánh giá ổn định định hơn so với đồng USD Mỹ, do đó, có rất ít biến động giá khi thị trường sụt giảm.
Đồng thời, vị trí gần Trung Quốc của Việt Nam có lợi cho việc tìm nguồn cung ứng nguyên liệu thô và máy móc cho sản xuất. Một số thương hiệu chuyển ra khỏi Trung Quốc sẽ muốn giảm thiểu rủi ro và ở lại gần bằng cách phân phối chuỗi cung ứng của họ ở Việt Nam.
May hàng xuất khẩu sang thị trường EU tại Công ty May Thái Nguyên.
© Ảnh : Trần Việt – TTXVN
Về chính trị, Việt Nam cũng có nền chính trị ổn định hơn so với các nước như Bangladesh và Ấn Độ, đồng thời, người dân được tiếp cận với cơ sở hạ tầng giáo dục và chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Đặc biệt, theo chuyên gia Mustafizur Rahman, thành viên của Trung tâm Đối thoại chính sách Bangladesh (CPD) cho rằng, thành công trong kiểm soát đại dịch Covid-19 ở Việt Nam vào năm ngoái là một lợi thế đáng kể. Trong khi nội tại ngành may mặc của Bangladesh cũng bộc lộ nhiều điểm yếu khi bị Việt Nam vượt về năng suất lao động, năng suất vốn và đa dạng hóa sản phẩm cung ứng ra thị trường thế giới.
Việt Nam nỗ lực không để đứt gãy chuỗi sản xuất may mặc
Các chuyên gia đánh giá, ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19 dễ gây ra thực trạng đứt gãy chuỗi cung ứng đối với ngành dệt may Việt Nam bởi xu hướng hội nhập ngày càng sâu rộng.
Tổng cục Thống kê công bố số liệu cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt, may Việt Nam trong 7 tháng đầu năm đạt 18,6 tỷ USD, tăng hơn 14% so với cùng kỳ năm ngoái.
Quốc hội Việt Nam chính thức thông qua EVFTA – sự kiện mong chờ từ lâu
8 Tháng Sáu 2020, 19:36
Đặc biệt, một số thị trường xuất khẩu chính như Mỹ và châu Âu tăng nhu cầu mua sắm quần áo, giày dép khi kinh tế bắt đầu hồi phục, các lệnh giãn cách xã hội được gỡ bỏ.
Bộ Công Thương Việt Nam cũng đánh giá, nhờ những điều kiện thuận lợi này, cơ hội cho dệt may cán đích mục tiêu 39 tỷ USD năm 2021 này. Nhiều doanh nghiệp nhận được đơn đặt hàng đến cuối năm khi tổng cầu cho các sản phẩm ngành dệt may tại thị trường xuất khẩu chính như Mỹ, EU đã tăng mạnh.
Tuy vậy, tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp và kéo dài đang cản trở mục tiêu của toàn ngành.
Cuối tháng 7 vừa qua, theo số liệu của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), tại thời điểm này có đến 97% các doanh nghiệp trong ngành dệt may tại các tỉnh phía Nam đều phải đóng cửa vì dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp. Đó là điều hết sức đáng lo ngại.
Chỉ có khoảng 3% vẫn hoạt động theo phương án “3 tại chỗ” (sản xuất, ăn, nghỉ tại chỗ hoặc thực hiện giải pháp “một cung đường, hai điểm đến), chủ yếu phục vụ khâu phát triển mẫu hoặc do có các đơn hàng gấp, nếu dừng sản xuất thì thiệt hại rất lớn.
VITAS cho hay, hiện đã có một số đối tác lo ngại chuỗi cung ứng hàng hóa của họ sẽ bị đứt gãy đã có động thái dịch chuyển đơn hàng sang các nước có tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt hơn Việt Nam.
Về vấn đề ngành lao động dệt may, Chủ tịch VITAS Vũ Đức Giang thông tin, lo ngại lớn nhất hiện là không biết khi nào sản xuất trở lại bình thường nên không thể chuẩn bị cho việc giữ lao động cũng như lên kế hoạch sản xuất để bù đắp thời gian đã mất, do đó không thể xác nhận được thời điểm xuất hàng.
Ngoài ra, tỷ lệ công nhân tham gia 3 tại chỗ tại các nhà máy chỉ từ 10-30%, nên việc sản xuất cũng không ra sản
phẩm và đây là tình thế tạm thời và không mong muốn.
Ông Giang nhấn mạnh, để thích nghi với yêu cầu phòng, chống dịch ở mức cao nhất, các doanh nghiệp của nhiều tỉnh, thành phố như TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Cà Mau đều đã thực hiện phương châm “3 tại chỗ”. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng đủ điều kiện để thực hiện các giải pháp này, nhất là với những đơn vị có số công nhân hàng nghìn công nhân.
Về phần doanh nghiệp, nhiều công ty cho biết, việc thu xếp thực hiện ba tại chỗ, chi phí xét nghiệm thường xuyên cho công nhân gây nhiều khó khăn. Nhà máy giảm công suất, đơn hàng cũng giảm, thậm chí nhiều đơn hàng xuất khẩu phải ngưng, hoãn, gây hệ lụy lớn, nếu không may có thể còn bị hủy đơn hàng, mất đơn hàng.
Ông Vũ Đức Giang nhấn mạnh, có doanh nghiệp đã bố trí phương án sản xuất “3 tại chỗ”, nhưng từ 60-70% người lao động không đồng ý ở lại công ty do sợ bị lây lan dịch bệnh. Vậy số lao động này có được hưởng trợ cấp như thế nào. Nếu doanh nghiệp phải trả lương ngừng việc thì thực sự sẽ không đủ khả năng chi trả và đây cũng là khó khăn của các doanh nghiệp.
Trước thực trạng này, Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương Việt Nam thừa nhận, việc dịch bùng phát ở dịch bùng phát tập trung chủ yếu ở các tỉnh có số lượng lớn khu công nghiệp, doanh nghiệp chế biến chế tạo, đã khiến hoạt động sản xuất bị gián đoạn. Nhiều doanh nghiệp phải dừng sản xuất, ảnh hưởng đến tiến độ giao hàng, đặc biệt các đơn hàng xuất khẩu.
Bộ Công Thương cũng nhận thấy rằng, nếu không có giải pháp giúp đỡ doanh nghiệp sớm quay trở lại sản xuất, khách hàng sẽ dừng, hủy đơn hàng để chuyển sang nước khác. Đến khi dịch được kiểm soát, doanh nghiệp khó để doanh nghiệp Việt Nam có thể nối lại các mối quan hệ kinh doanh đã mất.
Đề nghị nhanh chóng tiêm vaccine cho lao động ngành may mặc
Vấn đề mấu chốt và cấp bách hiện nay chính là người lao động và người dân phải được tiêm vaccine nhanh nhất và nhiều nhất có thể.
Ông Vũ Đức Giang đề xuất nhà nước ưu tiên cho người lao động tại các doanh nghiệp sớm được tiêm vaccine, có thể cân nhắc trên cơ sở doanh nghiệp tự chịu chi phí. Bên cạnh đó, có thể giành ưu tiên cho đội ngũ lái xe để đảm bảo lưu thông hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân và đảm bảo sản xuất không để đứt gãy chuỗi cung ứng.
Theo ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) chia sẻ với TTXVN, đối với đợt đầu tiên, Vinatex mong muốn tất cả người lao động trực tiếp được tiêm vaccine và sau đó, nếu lượng vaccine đủ thì nhân rộng ra để tiêm cả cho những người trong gia đình, những người sống cùng người lao động để đảm an toàn cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Liên hệ làm web: Thiết kế web